Xuất khẩu tôm của Việt Nam trong 6 tháng qua đã đạt hơn 2 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm 2024. Sự tăng trưởng ấn tượng này đến từ nhiều yếu tố, trong đó có sự phục hồi của thị trường Trung Quốc và sự đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu.
Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tôm chân trắng chiếm tỷ trọng cao nhất với 62,1%, tiếp theo là tôm loại khác (27,4%) và tôm sú (10,5%). Đáng chú ý, nhóm ‘tôm loại khác’ đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng tới 124%. Điều này cho thấy sự đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu của ngành tôm Việt Nam đã mang lại kết quả tích cực.
Trung Quốc đã vươn lên vị trí dẫn đầu nhập khẩu tôm Việt Nam với kim ngạch đạt gần 595 triệu USD, tăng 81% so với cùng kỳ. Sự phục hồi tiêu dùng, nhu cầu cao dịp hè và nhu cầu cao đối với tôm hùm từ Việt Nam tiếp tục giúp Trung Quốc trở thành thị trường bứt phá nhất. Sự tăng trưởng của thị trường Trung Quốc đã giúp bù đắp cho sự suy giảm của thị trường Mỹ.
Tuy nhiên, thị trường Mỹ – từng là đầu tàu xuất khẩu của tôm Việt – lại có dấu hiệu suy giảm. Dù kim ngạch 6 tháng vẫn tăng 13% lên 341 triệu USD, nhưng phần lớn tăng trưởng đến từ tháng 5 khi doanh nghiệp Việt đẩy mạnh giao hàng trước khi thuế đối ứng của Tổng thống Donald Trump có hiệu lực. Sang tháng 6, xuất khẩu sang Mỹ giảm tới 37%. Các yếu tố thuế quan đã khiến thị trường Mỹ trở nên bất ổn, khó dự đoán.
Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam đang đối mặt với các nguy cơ từ thuế chống bán phá giá sơ bộ hơn 35% và thuế chống trợ cấp dự kiến áp dụng cuối năm nay. Hiệp hội đánh giá các yếu tố thuế quan đã khiến thị trường Mỹ trở nên bất ổn, khó dự đoán. Nhập khẩu tôm của Mỹ tuy vẫn tăng trong 5 tháng đầu năm, nhưng rõ ràng đây là kết quả của việc các doanh nghiệp ‘chạy đơn’ trước ngày thuế có hiệu lực, không phải là tăng trưởng bền vững.
Trong bối cảnh này, doanh nghiệp tôm Việt cần chủ động tái cấu trúc chiến lược xuất khẩu. Giải pháp gồm đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc Mỹ, tận dụng ưu đãi EVFTA, CPTPP; đẩy mạnh sản phẩm chế biến sâu, phù hợp xu hướng tiện lợi, đảm bảo truy xuất nguồn gốc rõ ràng, tránh rủi ro gian lận thương mại.
Cùng với đó, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số toàn chuỗi và kiểm soát vùng nuôi đạt chuẩn sẽ nâng cao khả năng thích ứng, tối ưu chi phí. Doanh nghiệp cũng cần chuẩn bị tốt về tài chính, pháp lý để đối phó với thay đổi thuế từ các thị trường lớn.
Nửa cuối năm, triển vọng xuất khẩu phụ thuộc lớn vào chính sách thuế quan từ Mỹ; khả năng tái cơ cấu nhanh của doanh nghiệp để chuyển dịch sang các thị trường ít rủi ro hơn; tình hình dịch bệnh và chi phí đầu vào trong nước…